Tin du lịch Ninh Bình

Khám phá ngôi chùa hơn 500 năm tuổi với mệnh danh “ Nam Thiên Đệ Nhị Động”

Cập nhật: 19/11/2024
Chùa Bích Động ở Cố đô Hoa Lư được xếp hạng đẹp thứ 2 sau động Hương Tích và được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhị động”. Chùa Bích Động thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là một trong những nơi linh thiêng nhất mà khách hành hương luôn tìm về.

Chùa Bích Động là ngôi chùa cổ được xây dựng trên dãy núi đá vôi Trường Yên. Chùa là di tích lịch sử văn hóa nằm trong quần thể danh thắng Tràng An, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Theo sử sách, chùa Bích Động có tên cổ “Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng”, nghĩa là (ngôi chùa bằng đá đẹp như ngọc chốn thâm sơn cùng cốc).  Đến với vùng sơn thủy hữu tình, du khách không chỉ được ngắm nhìn hang động kỳ thú, bồng bềnh trên chiếc thuyền nan dưới ba vòm đá xanh và lắng nghe những câu chuyện về các nhân vật lịch sử liên quan đến nơi này.

Về lịch sử hình thành theo sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã ghi: Năm Chính Hòa thứ 15 (1695) có hai vị sư là Chí Kiên và Chí Thể đến khu vực Đam Khê, thấy phong cảnh kỳ thú, núi non trùng điệp, lại phát hiện ra nhiều hang động đẹp và đã có chùa, nên hai vị sư bèn vận động nhân dân trong vùng tôn tạo, mở mang thêm cảnh chùa… xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: chùa Hạ, chùa Trung, và chùa Thượng để tu hành. Năm Đinh Hợi (1707), hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở động Tối. Hai năm sau, hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể lại làm bia khắc minh văn chùa Bích Động viết bằng chữ Hán. Vào cuối năm Giáp Ngọ, tức năm 1774, sau khi dẫn quân đi tuần hành ở biên giới trở về, chúa Trịnh Sâm và Tể tướng Nguyễn Nghiễm đã ghé thăm chùa. Chúa Trịnh Sâm đã đặt tên cho chùa là Bích Động, một dòng chữ nhỏ ở bên chữ Bích Động ghi “Nhật nam nguyên chủ đặc bút” chính là tên hiệu của chúa Trịnh Sâm. Dòng chữ nhỏ nữa khắc bên phải chữ Bích Động là “Nguyễn Nghiễm phụng đề” là tên người viết chữ. Hai chữ Hán lớn “Bích Động” do tể tướng Nguyễn Nghiễm viết là một tác phẩm nghệ thuật của con người gắn liền với kiệt tác của thiên nhiên. Nhờ có lời vàng của chúa Trịnh Sâm, thư pháp xuất sắc của tể tướng Nguyễn Nghiễm, cảnh trí chùa Bích Động thêm phần cổ kính, trang nghiêm.

Điều độc đáo là ở núi Bích Động có 3 ngôi chùa, lại có 3 động gồm 2 động khô và 1 động nước hình thành theo kiểu chữ “Tam” Hán tự. Dưới đất là Xuyên Thuỷ Động, lưng chừng núi là Bích Động ôm gọn lấy điện Mẫu và chùa Trung, bên trên chùa Trung là Động Tối. Cầu đá dẫn vào cổng Tam quan chùa Bích Động, được ghép bằng những phiến đá xanh. Ở đây có con đường bên chân núi dài khoảng 55m lát gạch là con đường “Nhất chính đạo” để đi vào chùa Hạ. Chùa Hạ có kiến trúc 5 gian, 2 tầng 8 mái uốn cong, xây bằng đá tảng mài nhẵn trên nền cao dưới chân núi rất bề thế. Cột thềm, lan can chủ yếu được tạo dựng từ đá xanh. Gian giữa phía ngoài treo bức đại tự bằng chữ Hán “Mạo Cổ thần thanh” (dáng dấp ngôi chùa xưa này thiêng lắm), trong chùa thờ Phật như bao nhiêu các ngôi chùa khác của làng quê Việt Nam. Du khách muốn vào chùa Hạ phải qua một cầu đá ba nhịp, dưới cầu là đầm sen.

Sau khi tham quan chùa Hạ, du khách men theo phía bên phải, đi qua 80 bậc đá lên chùa Trung. Chùa có kiến trúc bán mái phía ngoài, một nửa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên, gồm 3 gian thờ Phật. Phía bên trái có tấm bia “Bích Sơn thiền tự bi” (bia ghi lịch sử chùa Bích Động) dựng thời Vua Lê Dụ Tông (1705-1729), bên phải là tấm bia thời Cảnh Hưng tạc ngay vào sườn núi. Phía trên mái chùa Trung ở vách đá thẳng đứng được chạm khắc hai chữ Hán là “Bích Động” (có nghĩa là Động Xanh) do chúa Trịnh Sâm đã đến thăm chùa và đặt tên. Lễ Phật xong, du khách bước lên 21 bậc đá nữa là đến động Tối. Đây là động chính, bên trên cửa động có treo một quả chuông cổ bằng đồng được đúc năm Đinh Hợi (1707), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ ba, thời Vua Lê Dụ Tông. Cửa động hình cầu vồng, người dân thường gọi là cầu Giải Oan. Du khách khi đến đây thường thỉnh ba tiếng chuông ngân để "giải oan" cho tâm hồn nơi cửa Phật được thanh tịnh. Vào trong động, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh như một bức tranh tuyệt đẹp do thiên nhiên ban tặng với hình ông tiên, cô tiên, tiểu đồng hay rùa bơi, rồng lượn, voi chầu, hổ phục, chim đại bàng, kho tiền, kho thóc… có một không hai. Bên phải cửa động có ba tượng Phật bằng đá uy nghi. Dưới nền động có nhũ đá hình con rùa lớn và đặc biệt có hai khối đá kỳ lạ khi gõ vào phát ra tiếng kêu như mõ. Những vẻ đẹp sinh động, ấn tượng này khiến ai nấy phải thốt lên đây quả thật là ngôi chùa thiên tạo.

Qua động Tối là chùa Thượng, du khách bước lên gần 40 bậc đá theo sườn núi thấy một ngôi chùa nhỏ nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Chùa có kiến trúc 2 gian theo kiểu nhà dọc quay hướng Đông Nam, trong chùa chỉ có một tượng Phật bà Quan Âm và hai bên là hai miếu thờ Sơn Thần và Thổ Địa. Cạnh chùa có một bể nước gọi là "bể nước Cam Lồ" của Phật Bà Quan Âm. Khi lên đến chùa Thượng, du khách có thể phóng tầm mắt để nhìn thấy 5 ngọn núi đứng xung quanh như 5 cánh hoa sen gọi là Ngũ Nhạc Sơn: núi Tầm Sặng (có nhiều cây sặng), núi Gia Định, núi Con Lợn, núi Đầu Cầu và núi Hang Dựa. Nếu nhìn xuống, mọi người sẽ thấy cánh đồng Ngũ Môn có một quả núi nhỏ đá xếp từng lớp gọi là núi Chồng Sách. Sau núi Chồng Sách có một ngọn núi có hình dáng voi chầu, người dân địa phương gọi là núi Voi.

Tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, thấy động vừa đẹp đẽ vừa nguy nga liền phong Bích Động "Nam Thiên Đệ Nhị Động", đứng sau động Hương Tích là "Nam Thiên Đệ Nhất Động" và trước động Địch Lộng là "Nam Thiên Đệ Tam Động".

Chùa Bích Động không chỉ là ngôi cổ tự có vẻ đẹp độc đáo do thiên nhiên ban tặng, nó còn là chứng nhân lịch sử, có nhiều dấu ấn trong kháng chiến chống Pháp. Trong buổi đầu cách mạng, nơi đây là căn cứ của đồng chí Tạ Uyên - một chí sĩ cách mạng quê ở làng Côi Trì, huyện Yên Mô, Ninh Bình. Trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, Bích Động được chọn là cơ sở của công binh xưởng Phan Đình Phùng, là thao trường luyện tập của lực lượng dân quân tự vệ địa phương và là nơi họp của cơ quan đầu não tỉnh Ninh Bình. Đặc biệt, trong chiến dịch Quang Trung năm 1951 và chiến dịch Tây Nam Ninh Bình năm 1953, với địa thế hiểm trở, Bích Động được chọn là căn cứ của bộ đội chủ lực. Vì vậy, khi đến đây tham quan, du khách không chỉ được nghe giới thiệu về cảnh quan thiên nhiên đẹp, ấn tượng và còn được nghe về câu chuyện của các nhân vật lịch sử, anh hùng cách mạng nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, cách mạng của giới trẻ.

Chùa Bích Động không những được biết đến là ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất ở cố đô Hoa Lư từ xưa đến này mà còn là một tác phẩm nghệ thuật cổ kính, trang nghiêm của con người hòa nhập với khung cảnh thiên nhiên tươi xanh, tĩnh lặng góp thêm cho bức tranh toàn cảnh của một vùng di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được hoàn mỹ và trường tồn cùng thời gian. Phải nói rằng, chùa Bích Động là một danh thắng tiêu biểu trong Quần thể Danh thắng Tràng An – Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới mà du khách không thể bỏ khi đến với vùng đất cố đô Hoa Lư, Ninh Bình.

Nguồn: Hồng Hạnh; Ảnh: Xuân Lâm
Đánh giá bài viết
Đánh giá: 0/5 từ 0 người bình chọn.
Quét mã QR
Xem tiếp